Thứ Hai, 23 tháng 2, 2009

5 bí quyết trở thành nhân viên bán hàng bậc thầy

5 bí quyết trở thành nhân viên bán hàng bậc thầy

Trở thành một người bán hàng không khó, nhưng trở thành một nhân viên bán hàng bậc thầy lại không hề đơn giản. Để có được vị trí này, bạn cần phải học tập, rèn luyện, thực hành cho đến khi thành thạo và chuyên nghiệp.

Nhân viên bán hàng bậc thầy phải là chuyên gia trong mọi lĩnh vực, từ nhỏ đến lớn. Trong những công ty mà nhân viên bán hàng làm việc trực tiếp với khách hàng, nhân viên bán hàng bậc thầy là những người thiết lập giao dịch. Họ đem lại doanh thu cao và những khoản lợi nhuận khổng lồ. Họ mang về những hợp đồng và khách hàng mới. Nhân viên bán hàng bậc thầy bán những ứng dụng mới, sản phẩm mới và lợi nhuận cứ thế tăng theo doanh số. Họ chính là những người làm nên những con số kỳ diệu. Hơn thế nữa, nhân viên bán hàng bậc thầy còn tự kiếm cho mình những khoản tiền lớn. Họ luôn được trả lương hậu hĩnh, và chẳng có gì lạ khi nhân viên bán hàng bậc thầy thuộc nhóm nhân viên được hưởng lương cao nhất công ty.

Không phải ai cũng có thể là nhân viên bán hàng bậc thầy, nhưng những người này lại có mặt ở khắp nơi. Họ có thể là những nhân viên bán hàng siêu hạng trong các doanh nghiệp, là người bán hàng hưởng hoa hồng, là doanh nhân, chủ doanh nghiệp nhỏ, là những người hành nghề tự do, đại lý, người môi giới hay thành viên ban quản trị của các công ty.

Giữa nhân viên bán hàng bậc thầy và nhân viên bán hàng chỉ có một khác biệt duy nhất: nhân viên bán hàng bậc thầy bán được nhiều hàng hơn, và dĩ nhiên có doanh thu cao hơn hẳn. Dù điều kiện kinh tế thuận lợi hay khó khăn, dù cạnh tranh khốc liệt hay giá cả có biến động đến đâu, thậm chí nội bộ doanh nghiệp đang có nhiều vấn đề nan giải, nhân viên bán hàng bậc thầy vẫn bán được nhiều hàng. Bí quyết nằm ở chỗ họ luôn làm những việc mà những nhân viên bán hàng khác chẳng mấy khi hoặc chẳng bao giờ làm.

Cũng như trong bóng chày, cầu thủ ném bóng phải chạy về các chốt khoảng bốn lần trong suốt trận đấu - điều này đồng nghĩa với việc anh ta nhất thiết phải chạy về chốt thứ nhất từ ba đến bốn hoặc năm lần trong trận đấu, dù có đánh trúng hay không. Vì chạy như vậy không quyết định toàn bộ cục diện trận đấu nên một số cầu thủ không trông mong gì vào cú đánh, cho rằng mình sẽ đánh bóng ra ngoài và uể oải chạy tới chốt. Còn nhân viên bán hàng bậc thầy không bao giờ nghĩ mình sẽ thất bại.

Sau mỗi lần đánh bóng, nhân viên bán hàng bậc thầy đều chạy hết tốc lực, vì chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn, trước khi đối phương vụng về bắt bóng hay trước khi bóng chạm đất, anh ta hoặc cô ta đã có mặt ở chốt nhà. Nhân viên bán hàng bậc thầy không bao giờ rời bỏ vòng quay bán hàng. Họ luôn chạy nước rút và luôn nỗ lực để thực hiện các cuộc giao dịch. Đây chính là lý do nhân viên bán hàng bậc thầy thường được tôn vinh là “những tay ném bóng cừ khôi’’.

Một chàng trai sau khi tốt nghiệp đã tìm được công việc đầu tiên: bán hàng… Anh bắt đầu công việc vào thứ hai. Chưa từng được huấn luyện bán hàng, chỉ với vài cuốn sách giới thiệu sản phẩm, một tập danh thiếp và vài lời chỉ dẫn, chàng trai trẻ được yêu cầu ra phố, gặp gỡ những người không quen biết để chào hàng. Mỗi ngày anh thực hiện tới 100 cuộc chào hàng như vậy.

Thế nhưng, sự thật tàn nhẫn trong những ngày đầu bán hàng là đến 90%, thậm chí đôi lần 100%, những cuộc gặp mặt đều bị từ chối. Lúc đó chàng trai không hề biết rằng chào hàng cho mọi đối tượng khách hàng - nhiệm vụ mà anh được giao, là biện pháp bán hàng kém hiệu quả nhất. Tuy nhiên, những lời từ chối xem ra cũng có giá trị.

Chàng trai trẻ học được cách không e ngại những lời từ chối. Bị từ chối là điều bình thường khi bán hàng. Thậm chí, hơi kỳ quặc, chàng trai bắt đầu thấy thích thú với những lời khước từ. Với anh, mỗi lần bị từ chối là một cơ hội để suy ngẫm lại, để thử nghiệm những lời phúc đáp hay để tôi luyện tính kiên trì, dù cho người quản lý không ngừng thúc giục “đi nhiều hơn nữa”, và chàng trai trẻ bắt đầu suy nghĩ.

Kiểu chào hàng bất ngờ đối với khách hàng như vậy cũng giống như một canh bạc. Từ chối cũng có nhiều dạng: khách hàng có thể đi vắng, viện cớ đang họp, quá bận rộn, chỉ gặp những người có hẹn trước, hay không bao giờ lắng nghe hoặc chịu gặp những người bán hàng. Chàng thanh niên chủ trương hẹn gặp khách hàng qua điện thoại, lời nhắn hay các chuyến viếng thăm. Tuy nhiên, giờ đây những cuộc gặp gỡ không còn là những cuộc gặp không mong đợi đối với khách hàng. Tỷ lệ thành công rất cao và tỷ lệ thuận với sự thăng tiến của anh.

Ngay từ khi lựa chọn công việc này, chàng trai đã quyết định rằng nghiêm túc là chưa đủ mà cần phải thật sự nghiêm túc. Người bán hàng này đã tận dụng mọi cơ hội để kết giao với những người bán hàng thành công thuộc mọi lĩnh vực kinh doanh. Anh còn trau dồi kiến thức thông qua sách vở, xem băng hình và tham gia các khóa huấn luyện bán hàng chuyên nghiệp. Tình cờ anh đọc được cuốn Làm thế nào để trở thành một nhân viên bán hàng bậc thầy - cuốn sách đã trở thành bí quyết bán hàng của anh. Và từ đó, chàng trai trẻ nuôi mơ ước trở thành một nhân viên bán hàng bậc thầy đích thực.

Công ty giao cho anh nhiệm vụ mới: giành một khách hàng tiềm năng từ tay một nhà cung cấp khác. Trước đó, chưa từng có ai trong công ty được mời gặp mặt dù chỉ để chào hàng. Chàng trai cũng tiếp cận khách hàng này theo chiến lược bán hàng của công ty. Tuy nhiên anh đã phạm sai lầm khi lặp lại điều mà những người tiền nhiệm đã làm. Anh bị từ chối thẳng thừng. Thậm chí, anh đã nghĩ đến việc bỏ cuộc. Giống như trường hợp của những chuyến chào hàng không được mong đợi, chàng trai bắt đầu suy nghĩ và nghiên cứu.

Sau khi đọc lại các dữ liệu bán hàng cũng như những ghi chép về các cuộc gọi bán hàng, anh nhận thấy cả mình và những nhân viên bán hàng trước đây đều làm những việc như nhau. Họ cùng gọi cho một loại khách hàng, viết những lá thư như nhau và hỏi những câu hỏi chẳng khác gì nhau. Những việc làm này đều thất bại nhưng họ vẫn không thay đổi phương pháp. Chàng trai tự hỏi: "Nhân viên bán hàng bậc thầy sẽ làm những gì?" Những điều nhân viên bán hàng bậc thầy làm khác hẳn những gì một nhân viên bán hàng vẫn làm: họ không chấp nhận thất bại; họ tự thích nghi, thay đổi và chấp nhận mạo hiểm sau khi đã tính toán kỹ. Chàng thanh niên quyết định đổi mới cách thức làm việc và chuẩn bị kiếm thật nhiều tiền. Anh đưa ra một chiến lược bán hàng hoàn toàn mới. Cuối cùng, chính quyết định này đã thay đổi cuộc đời anh, cả trên phương diện tài chính lẫn sự nghiệp.

Chàng trai này biết rằng mình nên bắt đầu bán hàng cho các nhà lãnh đạo cao nhất của khách hàng. Những nhân viên dưới quyền đã từ chối người bán hàng vài lần và ai cũng bảo hãy hỏi cấp trên của họ, đó là các tổng giám đốc điều hành (CEO), giám đốc điều hành (COO), giám đốc tài chính (CFO), giám đốc thông tin (CIO). Trước đó, chàng trai chưa từng làm việc trực tiếp với các nhân vật cao cấp. Anh quyết định làm bằng được điều này, dù có thể sẽ khiến những người anh tiếp cận đầu tiên cảm thấy bị xúc phạm. Hơn nữa, anh chưa từng hợp tác với công ty này, do vậy anh xác định chẳng có gì để mất.

Chàng trai trẻ tự giam mình trong văn phòng, nghiên cứu mọi thông tin liên quan đến công ty kia, từ lĩnh vực kinh doanh, đối thủ cạnh tranh cho đến khách hàng và website. Anh nhận thấy rằng người thật sự đưa ra quyết định quan trọng trong công ty, nhưng rất ít xuất hiện, chính là các CFO. Anh tập suy nghĩ giống một CFO. Và anh đã biết được những gì về việc điều hành một công ty đa quốc gia trị giá hàng tỷ đôla?

Bản thân các CFO cũng gặp khó khăn khi phải thanh toán các hóa đơn đúng hạn. Mối quan tâm hàng đầu của những người này là các vấn đề tài chính, đặc biệt là giải pháp để giảm được chi phí. Dựa vào nghiên cứu của mình, anh đã đi đến kết luận: công ty mình sẽ giúp đối tác tiết kiệm 50.000 đôla một năm bằng cách giảm chi phí vận hành hàng ngày.

Anh tìm số điện thoại của vị CFO đó và hẹn gặp bằng được. Ngay tiếng chuông đầu tiên, vị CFO đã nhấc máy. Sau khi tự giới thiệu, người bán hàng nói ngay rằng cuộc gọi này sẽ kết thúc trong vòng một đến hai phút. Anh cũng nói mình tự tin có thể giúp công ty của ông ta tiết kiệm tới 50.000 đôla, và hỏi ông có mang theo sổ tay công tác không. Vị giám đốc đồng ý và họ sắp xếp một cuộc hẹn. Cuộc gặp gỡ này hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, vì thế chàng trai đã lên kế hoạch rất cẩn thận. Anh đi tới cuộc hẹn cùng với một chuyên gia phân tích tình hình hoạt động của công ty mình.

Người ta không bao giờ đề cập tới sản phẩm ngay trong cuộc gặp đầu tiên, vì những câu hỏi của người bán hàng thường tập trung vào việc khách hàng sẽ nhận được gì từ sản phẩm của mình chứ không phải công nghệ hay đặc tính và tiện ích của sản phẩm. Người bán hàng trong câu chuyện trên đề nghị tiến hành một cuộc “kiểm tra nhằm tiết kiệm chi phí” để nhận dạng những quy trình thừa, cũng như những yếu tố gây lãng phí khác. Mặc dù về nguyên tắc, khách hàng phải trả tiền cho những cuộc kiểm tra như vậy, nhưng người bán hàng đã đưa ra một đề nghị khiến vị CFO không thể từ chối: cuộc kiểm tra sẽ hoàn toàn miễn phí nếu không tìm ra quá trình cắt giảm chi phí nào.

Vị giám đốc cử một nhân viên cấp dưới làm việc trực tiếp với người bán hàng để cung cấp cho anh những thông tin cần thiết cho việc tìm ra các vấn đề và biện pháp khắc phục. Trong phút chốc, những người trước đây không để ý hoặc từ chối người bán hàng này đã cộng tác với anh. Có được sự ủng hộ của giám đốc là một điều đáng nể, nhưng chàng trai muốn người được chỉ định làm việc với mình trở thành đồng minh, khiến họ cảm thấy mình cũng là người hùng, là người thắng cuộc.

Người bán hàng giành được sự tin tưởng của “người thắng cuộc” khi người này nhận thấy mục tiêu duy nhất của người bán hàng là giúp công ty anh ta tiết kiệm tiền và giúp anh ta lập công. Hai người trở nên thân thiện và cùng tìm ra giải pháp. Họ trình lên giám đốc một kế hoạch tiết kiệm 5.000 đôla một tháng (cao hơn so với giá của sản phẩm) trong giai đoạn đầu tiên của dự án giảm thiểu chi phí. Kết quả là một hợp đồng mua hàng trị giá 400.000 đôla được ký kết. Ông giám đốc cũng tán thành giai đoạn hai và ba của dự án, trong đó bao gồm một khoản đầu tư bổ sung cho việc phát triển các sản phẩm tiết kiệm chi phí trên thị trường Mỹ và cả nước ngoài. Dĩ nhiên, vị CFO chỉ đồng ý sau khi xem xét những tính toán chi tiết về đầu tư có lãi mà người bán hàng đề xuất.

Những điều tốt đẹp sẽ tới khi bạn đứng trước mặt người đưa ra quyết định cuối cùng. Một trong những lý do khiến công ty của chàng trai mất quá nhiều thời gian để có được một khách hàng tuyệt vời như vậy đơn giản là vì những khách hàng truyền thống không có lý do để đồng ý. Những hợp đồng theo kiểu truyền thống thường được duy trì dựa trên các quan hệ sẵn có, chúng không thể tạo ra những mối quan hệ mới. Đừng bỏ cuộc chỉ vì bị một ai đó từ chối. Không phải tất cả những lời nói “không” đều có nghĩa là hoàn toàn từ chối.

Trong quá trình kiểm tra để tiết kiệm chi phí, người cộng tác tình cờ cho biết con trai anh ta là một cổ động viên cuồng nhiệt của đội bóng Oakland Raiders. Luôn luôn lắng nghe, nhân viên bán hàng bậc thầy lập tức ghi nhớ chi tiết này. Một tuần sau khi nhận được đơn đặt hàng đầu tiên trị giá 400.000 đôla, người bán hàng đã ghé qua nhà một cầu thủ của Oakland, đồng thời là một trong số những người bạn thân nhất của anh. Trên đường về nhà, anh tặng cho người cộng tác một quả bóng có chữ ký của đội Raiders để làm quà cho cậu con trai. Ghi nhớ những điều nhỏ nhất và tận dụng chúng không bao giờ nằm ngoài khả năng của một nhân viên bán hàng bậc thầy.

Nhân viên bán hàng bậc thầy bán hàng và kiếm tiền cho mình bằng cách đem đến cho khách hàng những khoản lợi nhuận khổng lồ. Khi nhân viên bán hàng bậc thầy thành công, khách hàng của họ cũng thành công và ngược lại. Người bán hàng trong câu chuyện trên đã bắt đầu trò chơi của riêng mình từ cấp độ thấp nhất, từ một anh lính mới trở thành một nhân viên bán hàng bậc thầy.

Phương châm của nhân viên bán hàng bậc thầy

Đây là những nguyên tắc sống và làm việc. Các tổ chức nổi tiếng đều có phương châm riêng. Chẳng hạn, phương châm của Hiệp hội Hướng đạo sinh là "Hãy sẵn sàng", trong khi Tổ chức Giám hộ bờ biển Mỹ chọn "Semper Paratus" (Luôn sẵn sàng), còn tập đoàn IBM lại chọn "Suy nghĩ".

Nhân viên bán hàng bậc thầy đề cao các phương châm vì chúng nhắc họ những việc cần làm để kiếm những khoản lợi nhuận khổng lồ. Một số nhân viên bán hàng bậc thầy có nhiều phương châm, số khác chỉ có một phương châm duy nhất, cũng có nhiều phương châm không rõ ràng. Nhưng khi thăm dò bất kỳ một nhân viên bán hàng bậc thầy nào, bạn cũng sẽ tìm được một hoặc nhiều phương châm. Dưới đây là một vài phương châm phổ biến của các nhân viên bán hàng bậc thầy:

1. Ngủ sớm, dậy sớm, siêng năng bán hàng và quy đổi các giá trị thành tiền mặt

Nhân viên bán hàng bậc thầy mang lại cho khách hàng sự hài lòng hoặc tiền bạc, đôi khi là cả hai. Nhân viên bán hàng bậc thầy không bán hàng hóa hay dịch vụ, không bán đặc tính, lợi ích của sản phẩm hay công nghệ, họ bán cho khách hàng những tiện ích của sản phẩm hay công nghệ đó. Nói cách khác, họ bán giá trị quy đổi thành tiền mặt mà sản phẩm đem lại. Khi nhân viên bán hàng bậc thầy cung cấp cho khách hàng một giải pháp khắc phục khó khăn, giải pháp đó luôn được quy đổi thành tiền. Nhân viên bán hàng bậc thầy luôn nhắc nhở khách hàng để họ ý thức được họ sẽ mất bao nhiêu tiền nếu không có những giải pháp này.

Nhân viên bán hàng bậc thầy rất độc lập. Họ làm việc chăm chỉ để bán được nhiều hàng và luôn trong vòng quay bán hàng.

2. Nếu ngài không cộng tác với tôi, chúng ta sẽ cùng thất bại

Nhân viên bán hàng bậc thầy hoàn toàn tin rằng mình luôn giúp cải thiện tình trạng hiện tại của khách hàng. Họ biết nếu khách hàng không sử dụng dịch vụ của mình thì khách hàng sẽ bỏ qua thứ gì đó, còn mình sẽ mất doanh thu.

3. Tôi bán hàng ngay khi tỉnh giấc

Nhân viên bán hàng bậc thầy luôn luôn trong cuộc. Những người khác bán hàng để sống, nhân viên bán hàng bậc thầy sống để bán hàng. Khi đồng hồ báo thức đổ chuông vào lúc năm giờ sáng, thay vì một giai điệu hay những tiếng chuông, âm thanh duy nhất cất lên trong đầu anh ta là: “Này nhân viên bán hàng bậc thầy, hãy tỉnh dậy và bắt tay ngay vào bán hàng!” Với họ, bất kỳ lúc nào cũng có thể là thời điểm bán hàng.

4. Cạnh tranh từng ly, từng tấc

Giống như các vận động viên chuyên nghiệp, nhân viên bán hàng bậc thầy phải cạnh tranh từng ly, từng tấc. Họ sắp xếp nhiều cuộc hẹn hơn, chuẩn bị nhiều kế hoạch hơn và làm việc siêng năng hơn những nhân viên bán hàng khác. Họ chú ý tới từng chi tiết. Không có ai đánh máy thư thay họ, và họ cũng chẳng bao giờ mang theo bút máy trong túi áo sơmi. Họ làm việc chuyên nghiệp trong từng động tác vì họ ý thức được rằng chỉ “sẩy một ly” sẽ “đi một dặm”.

5. Tương lai là ngay lúc này

Đó chính là lý do tại sao nhân viên bán hàng bậc thầy phải luôn luôn và trước hết là duy trì được công việc hiện tại của mình. Nhân viên bán hàng bậc thầy say mê bán hàng và họ luôn kiếm được lợi nhuận. Họ luôn cố hoàn thành mục tiêu chỉ trong một cuộc gặp mặt, họ gợi ý về đơn đặt hàng trong mọi cuộc hẹn, và hiện tại họ không dựa vào những mối quan hệ lâu dài để bán hàng theo kiểu truyền thống. Hiện tại nghĩa là ngay bây giờ, ngay hôm nay. Ngay hôm nay hãy làm điều gì đó. Đừng chần chừ. Hãy gọi ngay cho khách hàng. Ngay bây giờ.

(Trích cuốn sách "Để trở thành nhân viên bán hàng bậc thầy" do Công ty Alpha

Thứ Ba, 17 tháng 2, 2009

Cứu ngân hàng, Mỹ rơi đúng vào “vết xe đổ” của Nhật?

Cứu ngân hàng, Mỹ rơi đúng vào “vết xe đổ” của Nhật?
( Thứ bảy, 14/02/2009 07:36 GMT+7)

Theo Kiều Oanh / VnEconomy
Ngành ôtô Nhật đang khốn đốn

Trong khi Mỹ và châu Âu thi nhau chi hàng trăm, hàng nghìn tỷ USD để cứu hệ thống ngân hàng, những người dày dạn kinh nghiệm trong ngành tài chính ở Nhật cho rằng, biện pháp này đúng là những sai lầm mà Nhật đã mắc phải trong lần suy thoái trước đây.

Bài học chưa thuộc?

Trong thập niên 1990, Nhật Bản đã trải qua những thách thức tương tự như những gì đang diễn ra ở Mỹ và châu Âu hiện nay.

Khi đó, kinh tế Nhật đã có cả một thập kỷ đình trệ, các ngân hàng chồng chất nợ nần, các chính phủ nối tiếp nhau liên tục tiêu phí hàng ngàn tỷ Yên để vực dậy hệ thống nhà băng mà chẳng đem lại hiệu quả gì.

Chỉ tới năm 2003, Chính phủ Nhật khi đó mới đưa ra được những biện pháp dẫn tới sự phục hồi cho nền kinh tế nước này.

Đó là, buộc các ngân hàng lớn phải tuân thủ những vụ kiểm toán không nương tay và phải công bố nợ xấu; tăng đầu tư công thêm 2.000 tỷ Yên, tương đương hơn 22 tỷ USD ngày nay; quốc hữu hóa một ngân hàng lớn cho dù vụ quốc hữu hóa này gây thiệt hại nặng cho cổ đông; chấp nhận để mặc những ngân hàng yếu hơn không trụ nổi phải đổ vỡ…

Tới khi những biện pháp “lạnh lùng” trên được đưa ra, chỉ số Nikkei 225 của thị trường chứng khoán Nhật đã sụt giảm mất 3/4 giá trị từ mức đỉnh trước đó, giá địa ốc tại nước này đã giảm 15 năm không nghỉ, nợ chính phủ đã vượt quá GDP, gọng kìm thiểu phát siết chặt quần đảo Nhật Bản.

Một số nhà nghiên cứu về giai đoạn lịch sử trên của Nhật cho rằng họ nhận thấy nước Mỹ đang sa vào vết xe đổ trong cách giải quyết khủng hoảng trước đây của đất nước Mặt trời mọc.

“Tôi cứ nghĩ nước Mỹ đã học được gì đó từ thất bại của Nhật Bản chứ. Tại sao họ lại có thể lặp lại cùng những sai lầm đó nhỉ?”, ông Hirofumi Gomi, một qua chức hàng đầu thuộc Cơ quan Dịch vụ tài chính Nhật Bản, nhận xét.

Một số nhà phê bình ở Mỹ chỉ trích kế hoạch giải cứu khối tài chính mà Bộ trưởng Bộ tài chính nước này Timothy Geithner công bố hôm 10/20 vừa qua là thiếu chi tiết. Nhưng các chuyên gia ở Nhật thì cho rằng, đây là một kế hoạch còn “rụt rè”, xét tới quy mô của cuộc khủng hoảng trong ngành ngân hàng mà chính phủ của Tổng thống Barack Obama đang phải đương đầu.

“Tôi nghĩ là Chính phủ Mỹ biết cuộc khủng hoảng này lớn tới mức nào, nhưng họ không muốn nói nó lớn tới mức nào. Cuộc khủng hoảng này lớn tới mức họ không thể thừa nhận thực tế đó”, kinh tế gia John Makin thuộc Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ nhận xét.

Ông nói thêm: “Những bài học của Nhật Bản ở những năm 1990 cho thấy nước Mỹ cần hành động mạnh hơn và phải quốc hữu hóa một số ngân hàng”.

Trên thực tế, ban đầu người Nhật cũng đã từng dò dẫm thử nhiều “liều thuốc” mà chính quyền của Tổng thống George W. Bush đã dùng và chính quyền của ông Obama hiện nay đang dùng. Đó là hạ lãi suất, kích thích tài khóa, bơm tiền…

Thậm chí, Nhật còn nỗ lực huy động nguồn vốn của khu vực tư nhân để mua một số tài sản độc hại trong bảng cân đối kế toán của các ngân hàng, đúng như những gì mà Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Geithner đang đề xuất thực hiện trong kế hoạch vẫn được gọi là “bad bank”.

Một lý do khiến Nhật Bản khi đó có những giải pháp “nhút nhát” như vậy là do Chính phủ e ngại dân chúng có thể nổi giận. Mỗi khi tiền thuế bị đem đi giải cứu các ngân hàng, sự phản đối của dân chúng lại gia tăng mạnh mẽ.

Tuy nhiên, kinh nghiệm của Nhật cho thấy, để giải quyết đống đổ nát của ngành ngân hàng đòi hỏi chính phủ phải mạnh tay và phải chi số tiền cực lớn. Mặt khác, càng trì hoãn việc khắc phục sẽ càng tốn kém.

Một bài học nữa là việc cứu hệ thống ngân hàng sẽ quyết định số phận của nền kinh tế. Mặc dù ông Obama đang ưu tiên kế hoạch kích thích kinh tế của ông, hoạt động kích thích tăng trưởng sẽ chỉ có thể thành công một khi những vết rạn trong hệ thống hệ thống ngân hàng được hàn gắn.

“Tôi cho rằng ông Obama đang mắc phải một sai lầm chiến thuật”, ông Makin nói.

Cách làm của Nhật: Phải thật “rắn”!

Cuộc khủng hoảng diễn ra ở Nhật trong thập niên 1900 và đầu những năm 2000 cũng xuất phát gốc rễ tương tự như cuộc khủng hoảng hiện nay ở Mỹ: Bong bóng địa ốc “nổ”, khiến các ngân hàng khốn đốn vì hàng nghìn tỷ Yên nợ xấu.

Ban đầu, các nhà lãnh đạo Nhật Bản không lường hết được mức độ tàn phá của sự lao dốc trên thị trường địa ốc đối với hệ thống ngân hàng. Ở Mỹ, chính sách tiền tệ nới lỏng đã dẫn tới tình trạng đầu cơ cổ phiếu và nhà đất cũng như tình trạng cho vay bừa bãi của các ngân hàng.

Khi khủng hoảng mới manh nha, nhiều nhà hoạch định chính sách Nhật ban đầu cho rằng việc áp dụng lãi suất thấp và các biện pháp kích thích kinh tế sẽ giúp các ngân hàng tự phục hồi. Nhưng tới cuối năm 1997, một loạt ngân hàng tại nước này đã đổ vỡ, châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng tín dụng.

Buộc phải hành động gấp, Chính phủ Nhật khi đó bơm 1.800 tỷ Yên, tương đương gần 20 tỷ USD ngày nay, vào các ngân hàng lớn của nước này. Nhưng đợt bơm vốn này do quá nhỏ, không được lên kế hoạch tốt, và do các nhà chức trách còn chưa hiểu hết về mức độ nguy hiểm trong hệ thống, nên đã không thể ngăn chặn được sự leo thang của khủng hoảng.

Cử tri Nhật nổi giận khi thấy tiền thuế bị Chính phủ lãng phí và đã trừng phạt liên minh cầm quyền bằng cách buộc Thủ tướng Ryutaro Hashimoto phải từ chức. Sau đó, nỗi lo về sự giận dữ của dân chúng đã “trói tay” Chính phủ Nhật.

Cũng vì lo ngại có thêm tin xấu xuất hiện, Chính phủ Nhật khi đó đã không buộc các doanh nghiệp công bố và cắt bỏ nợ xấu. Các khoản vay đã cấp cho các doanh nghiệp được liệt vào hàng dở sống dở chết vẫn tiếp tục được giữ trong bảng cân đối kế toán của các ngân hàng, thay vì được công bố cụ thể và đánh tụt giá trị.

Trong khi đó, Chính phủ Nhật tiếp tục thử nghiệm những biện pháp mới, trong đó đáng chú ý nhất là thành lập hàng loạt quỹ đầu tư có sự góp vốn một phần của tư nhân để mua tài sản xấu của các ngân hàng. Tuy nhiên, lượng nợ xấu mà các quỹ này mua vào rất nhỏ giọt do quy mô của các quỹ chỉ là nhỏ bé. Đồng thời, việc bán nợ xấu cũng chẳng giúp các ngân hàng giải quyết được tình trạng thiếu vốn là bao, vì giá bán những tài sản này rất rẻ mạt.

Ước tính, số tiền thuế của dân mà Chính phủ Nhật chi ra khi đó để cứu các ngân hàng chỉ thu hồi chưa được một nửa. Trong thời kỳ 1992 - 2005, các ngân hàng Nhật đã thâm hụt tài sản khoảng 96.000 tỷ Yên, tương đương 19% GDP hàng năm của nước này.

Cho tới lúc này, kế hoạch khôi phục khối tài chính của chính quyền Obama vẫn né tránh những quyết định khó khăn nhất như quốc hữu hóa các ngân hàng, loại bỏ các cổ đông, hay để các ngân hàng ôm quá nhiều nợ xấu tự sụp đổ. Trên thực tế, Nhật Bản cuối cùng đã buộc phải để những điều này xảy ra.

“Thật đáng ngạc nhiên là Mỹ đang lặp lại sai lầm của Nhật. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ thì lúc nào mà chẳng sẵn sàng khuyên nước Nhật phải làm thế này, thế kia cơ mà”, kinh tế gia Makin nói.

Các chuyên gia cho biết, những sai lầm của Nhật trên đã khiến hệ thống tài chính của nước này mất 6 năm sau khi khủng hoảng nổ ra mới có thể phục hồi. Năm đó, Chính phủ của nhà lãnh đạo cải cách Junichiro Koizumi đã ra lệnh kiểm toán nghiêm ngặt những ngân hàng hàng đầu của Nhật. Người lãnh đạo chương trình cải cách tài chính của Nhật khi đó là ông Heizo Takenaka, và kế hoạch cải cách này cũng mang tên ông, Kế hoạch Takenaka.

Ban đầu, các ngân hàng công khai phản đối Takenaka. “Chính phủ không thể yêu cầu lãnh đạo ngân hàng làm việc này, việc kia. Như thế là quá lố bịch”, ông Yoshifumi Nishikawa, Chủ tịch tập đoàn Sumitomo Mitsui Financial Group, phát biểu vào năm 2002.

Nhưng ông Heizo Takenaka vẫn giữ vững quan điểm của mình. Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, ông kể lại: “Khẩu hiệu của tôi khi đó đối với các ngân hàng là: “Đừng che giấu điều gì. Đừng trốn tránh mà phải tuân thủ quy tắc”. Tôi nói rõ với họ là tôi ở vị trí giám sát họ và tôi sẽ không đàm phán gì với họ hết”.

Phải mất 3 năm, kế hoạch của ông Takenaka mới giải quyết được phần lớn số nợ xấu trong các ngân hàng. Ngân hàng Resona do bị phát hiện thiếu vốn đã bị quốc hữu hóa. Sự cứng rắn của ông Takenaka đã giúp phục hồi lại niềm tin của dân chúng và thị trường vào hệ thống ngân hàng.

Đúng lúc đó, kinh tế Nhật đón một cơn gió lành mới, đó là sự bùng nổ của hoạt động xuất khẩu sang Mỹ , góp phần đáng kể cho sự phục hồi của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Tuy nhiên, lúc này, nước Mỹ có lẽ không thể trông đợi ở sự gia tăng nhu cầu của thế giới đối với hàng hóa của mình, vì suy thoái kinh tế đã lan rộng trên toàn cầu. Bởi thế, nhiều chuyên gia cho rằng, với cách giải quyết tình hình của Chính phủ Mỹ hiện nay, gánh nặng đối với người dân Mỹ khi tiền thuế của họ tiếp tục được đem đi để cứu các ngân hàng có lẽ sẽ còn tăng thêm nữa.

Thứ Năm, 5 tháng 2, 2009
















Tác giả: John G. MillerNgười đọc: Ái Hòa - Nhật Khanh



Chủ Nhật, 1 tháng 2, 2009

Thị trường chứng khoán 2008: Chuyện bây giờ mới kể

Thị trường chứng khoán 2008: Chuyện bây giờ mới kể
( Thứ bảy, 31/01/2009 03:18 GMT+7)

Theo Tâm Thiện / Đầu tư chứng khoán
Năm 2008 quả là một năm quá ư đặc biệt với nhiều câu chuyện không tưởng trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Hơn 8 năm tồn tại của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhà đầu tư không có lý do để nghi ngờ về cơ hội mà thị trường chứng khoán mang lại cho cá nhân họ sự giàu có, giúp doanh nghiệp tăng tốc và nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với khu vực.

Tất nhiên, trên những khúc quanh của mình, thị trường chứng khoán cũng khiến nhiều nhà đầu tư "hy sinh", nhiều doanh nghiệp biến mất, nhiều quỹ đầu tư thua lỗ… vì không thể chờ đợi đến lúc quyết định, không thắng trong nước cờ cuối cùng.

1. Anh hùng

"Chơi quân tử, đầu tư dài hạn, chính kiến rõ ràng, kỷ luật tốt, lạc quan và tin tưởng vào doanh nghiệp…, chồng tôi có đủ mọi tính tốt của một nhà đầu tư mẫu mực nên hôm nay thua đậm".

Thê tử của một trong những "đại gia" trên sàn chứng khoán Bảo Việt nói về chồng mình sau một năm đầu tư sóng gió. Bây giờ anh chị đến sàn để theo dõi là chính, tiền đã mua hết rồi và phải kiên nhẫn thôi.

Câu chuyện trên nhắc tôi nhớ lại siêu phẩm điện ảnh "Anh hùng" (đạo diễn Trương Nghệ Mưu). Bối cảnh của phim là đất nước Trung Hoa thời Chiến Quốc, bị chia cắt thành 7 nước: Tần, Triệu, Hán, Ngụy, Yên, Tề và Sở. Tần Vương tham vọng thống nhất đất nước và đầu rơi máu đổ là chuyện tất nhiên trong các cuộc chinh phạt.

Thông điệp của bộ phim là triết lý về hai chữ "Anh hùng" của các nhân vật: thích khách và bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Bộ phim khép lại khi người thích khách cuối cùng là Vô Danh đã tâm phục khẩu phục, cam chịu cái chết khi đối mặt với Tần Vương để cùng luận bàn về anh hùng. Nhân vật trong phim không ai thiếu chất anh hùng và dễ dàng hy sinh thân mình vì lý tưởng. Tần Vương vượt qua lẽ thường, khiến thích khách cảm phục, vì ông không thể hy sinh dễ dàng nếu chưa thống nhất thiên hạ.

Hơn 8 năm tồn tại của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhà đầu tư không có lý do để nghi ngờ về cơ hội mà thị trường chứng khoán mang lại cho cá nhân họ sự giàu có, giúp doanh nghiệp tăng tốc và nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với khu vực.

Tất nhiên, trên những khúc quanh của mình, thị trường chứng khoán cũng khiến nhiều nhà đầu tư "hy sinh", nhiều doanh nghiệp biến mất, nhiều quỹ đầu tư thua lỗ… vì không thể chờ đợi đến lúc quyết định, không thắng trong nước cờ cuối cùng.

Lời bàn: Đôi khi thành công chỉ đến với những ai kiên cường và kiên nhẫn. Đó là về lý thuyết mà nói.

2. Vẫn nghèo

Trên sàn chứng khoán, mấy ai xa lạ cái tên Đặng Thành Tâm, "siêu nhân" của Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn và là nhân vật đứng đầu trong top 100 người giàu nhất trên sàn chứng khoán năm 2007.

Cơn bão tài chính năm 2008 khiến nhiều đại gia lâm cảnh khốn khó, nhưng ông Đặng Thành Tâm vẫn có lời vàng khẳng định với báo chí: "Tôi vẫn giàu…, bởi số cổ phiếu nắm giữ không thay đổi". Với tôi, câu nói trên đã trở thành bất hủ.

Nhưng câu nói trên lại khiến nhiều nhà đầu tư mủi lòng, nhiều người đã lần lượt bán hết nhà cửa và những tài sản một thời có được nhờ chứng khoán, phút cuối cùng phải than một tiếng: thế hóa ra, tôi vẫn nghèo.

Năm 2008 quả là một năm quá ư đặc biệt với nhiều câu chuyện không tưởng. Chuyện hai nhân viên ngân hàng rủ nhau vào khách sạn tự vẫn vì thua lỗ trên sàn vàng. Lại có chuyện một doanh nghiệp kia in thừa một đống cổ phiếu để bán lấy tiền. Và cũng có công ty niêm yết lời giả lỗ thật trong suốt 3 năm trời…

Giấc mơ làm giàu thì ai cũng có. Nhưng nếu quá hối hả trong giấc mơ làm giàu và uống quá chén khi mộng chưa trọn vẹn thì thật là tai họa.

Lời bàn: Qua phong ba bão táp, người siêu giàu nói: tôi vẫn giàu. Số đông lại nói: tôi vẫn nghèo. Người ta không thể làm giàu bằng một giấc mơ ngọt ngào rằng mình sẽ trúng số độc đắc khi tỉnh dậy.

3. Của nợ

Có nhiều lý do để 3 đại gia xe hơi của Mỹ là Ford, GM và Chrysler được người ta ngưỡng mộ như 3 người khổng lồ bất khả chiến bại, những người hùng từng bảo đảm tương lai cho 3 triệu lao động trên đất Mỹ và cung cấp 1/2 đầu xe tại nước này…

Vậy mà hôm nay, họ đang khẩn thiết kêu gọi giải cứu. Sao có thể đột tử nhanh đến thế? Có người nói tại họ quá khổng lồ, tại họ có quá nhiều tài sản, vay nợ quá lớn và ăn uống vô độ (chi phí quá lớn)…, nên một khi doanh số sút giảm là họ lập tức khủng hoảng và đứng trước bờ vực phá sản.

Hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam hiện nay cho thấy, những doanh nghiệp lớn, đầu tư mở rộng quá nhanh trong 2 năm qua, tham gia dự án bất động sản thuộc những vị trí đất vàng… là những doanh nghiệp sử dụng nhiều vốn vay và dễ dàng thiếu hụt tiền mặt vào thời điểm thị trường không thuận lợi.

Nói về tài sản, ba đại gia ôtô trên không biết bán khi nào mới hết, nhưng họ vẫn có thể phá sản do khó khăn tài chính trong ngắn hạn. Vấn đề chung ở đây là nếu bạn sở hữu quá nhiều tài sản khi khả năng có hạn (bạn phải vay nợ và chi phí quá lớn), bạn sẽ gặp vấn đề.

Nếu có 1 tỷ đồng, 5 tỷ đồng hay một triệu USD, bạn sẽ làm gì với số tiền đó? Nhiều nhà đầu tư khi bắt đầu chiến thắng đã vội vã mua nhà lớn, sắm xe đẹp và vay nợ nhiều đến mức có thể để mua cổ phiếu. Có thể bạn có nhiều tài sản nhưng có lúc muốn bán cũng không dễ gì tìm người mua, còn chủ nợ thì luôn thiếu sự nhân từ.

Lời bàn: Nhà to, đất vàng, cổ phiếu đầy đàn…, giấc mơ mới ngọt ngào làm sao nếu bạn không muốn quá nhiều và muốn ngay lập tức?

4. Vỡ hụi

Chợ Vỹ Dạ, thành phố Huế… những ngày này tan tác. Hàng trăm tiểu thương mất hồn vì chủ hụi đột nhiên biến mất cùng số tiền hàng tỷ đồng. Chuyện động trời này nghe đau xót, nhưng lại quá bình thường với hàng chục vụ vỡ nợ, bể hụi, lừa đảo…, mà báo chí đưa tin, trong suốt vài tháng qua.

Nhưng vỡ nợ ở Việt Nam chỉ là chuyện con nít nếu so với vụ nhiều tổ chức đầu tư mất đến hơn 50 tỷ USD vào một siêu lừa, tác giả từng là Chủ tịch Sàn chứng khoán Nasdaq, Mỹ.

Tại sao người ta lại dễ bị lừa như thế? Dân gian chẳng bảo đó là do lòng tham cả thôi. Về bản chất, hụi là một dạng tín dụng ở chợ, giúp người ta có thể huy động vốn dễ dàng, nhanh chóng với lãi suất khá cao, nhưng hoàn toàn dựa trên chữ tín nên dễ bể hụi nếu lòng tin đặt sai chỗ.

Luận về chữ tín quả khó lắm. Chữ tín của con buôn ngoài chợ cũng có giới hạn, vài tháng 1 vụ đổ bể là thường. doanh nghiệp đánh bóng hình ảnh, tốt khoe xấu che…, cho đến những quả lừa siêu đẳng như vụ 50 tỷ USD thì tinh vi đến mức các ngân hàng bậc nhất thế giới cũng mất tiền mà không hề hay biết.

Thị trường chứng khoán xưa nay được ví như thị trường của tương lai và kỳ vọng, nơi giá trị được tạo ra bởi hy vọng, sự lạc quan và lòng tin. Đáng tiếc là trong năm 2008, giới đầu tư cả thế giới mất mát vì mua phải con ma "nợ dưới chuẩn".

Ở Việt Nam, chuyện Bông Bạch Tuyết lỗ thật lời giả trong suốt 3 năm, lại được 2 công ty kiểm toán có uy tín góp phần xác nhận..., khiến người ta bán tín bán nghi với những báo cáo tài chính, những thông tin được doanh nghiệp đủ loại công bố.

Lời bàn: “Cá tháng Tư” khiến nguời ta vui, có những lời nói dối vô hại hay những người bị cắn tai lừa cảm thấy vui. Nhưng nếu những quả lừa, hậu quả nhà tan cửa nát, được xử lý nhẹ hều như Bông Bạch Tuyết thì chợ chứng khoán thời vỡ hụi không vui chút nào.

5. Dang dở

Tôi kể người nghe, chuyện tình Công ty Chứng khoán A. Sinh ra trong thời chứng khoán bùng nổ với những kỳ vọng đẹp như mây hồng. Cổ đông sáng lập ban đầu không những là những nhà kinh doanh thành đạt trên thương trường, mà còn là những nhà đầu tư thiên biến vạn hóa trên thị trường chứng khoán.

Với hoàn cảnh thị trường chứng khoán đang mùa bội thu, doanh nghiệp có một khởi đầu hết sức thuận lợi cho đến cuộc chia ly thứ nhất.

Lần đầu, một trong những cổ đông sáng lập quá mức nhiệt tình trong kinh doanh, dùng khả năng thiên biến vạn hóa của mình để hô đất thành vàng, nhưng những cổ đông khác lo ngại cho tương lai. Cuộc chia tay lần thứ nhất diễn ra với việc các cổ đông ở lại phải mua lại cổ phần ở một giá không hời. Thay thế vào đó là một cổ đông được mời về với nhiều ưu đãi, người được giao vai trò cầm lái. Khi ấy giá cổ phần được chuyển nhượng khoảng trên 2X.

Lần chia ly thứ hai lại xuất phát cũng chính từ người cầm lái có nhiều cống hiến vượt quá tiêu chí của tổ chức và cổ đông đã ra đi muốn quay lại. Một lần nữa, các cổ đông phải hy sinh một phần cho sự ra đi được ổn thỏa, đồng thời tốn kém thêm một khoản kha khá để mời một nhân vật khác về lèo lái. Giá cổ phiếu trên thị trường lúc này trong khoảng 3X - 4X.

Lần chia tay gần đây là lúc cổ phiếu doanh nghiệp giảm xuống mức giá 0,25X mà rất hiếm người mua. Người cầm lái buộc phải ra đi do kết quả kinh doanh thua lỗ và nhiều quyết sách không hẳn đã như chiến lược đề ra ban đầu.

Điều đáng buồn là, người ta sẽ còn nhìn thấy những cuộc chia tay khóc không ra nước mắt như vậy ở nhiều công ty niêm yết, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán…

Lời bình: Trong giai đoạn bùng nổ của thị trường chứng khoán, nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận trả giá cao cho việc tăng tốc và đón đầu, nhưng không lường hết rủi ro do việc đồng sàng dị mộng của những nhân sự mà họ trả giá cao mời về. "Nhiệt tình + ngu dốt = 3 x phá hại". Nhưng "nhiệt tình + khôn ngoan + mục tiêu cá nhân = 33 thảm họa".

6. Khát nước

Cao nguyên Genting chìm trong khói núi và mây mù, cảnh vật hùng vĩ nhưng lạnh lẽo và bí ẩn như nét mặt của người Ấn ở đất nước Malaysia. Có lẽ vì thế mà không khí ấm nóng đặc biệt của những sòng bạc ở đây khiến tôi có cảm giác khát nước một cách đặc biệt, lần đầu tiên thắng được 2.000 Ringit sau 2 giờ đỏ đen, tôi vẫn không muốn đứng dậy, dù tự nhủ mình không nghiện cờ bạc, miệng khô khốc và mắt căng ra…

Bây giờ thì tôi hiểu vì sao người ta nói rằng con bạc khát nước. Thật khó để bạn ra khỏi sòng bạc nếu chưa vắt hết sức lực hoặc đồng xu cuối cùng. Chẳng khó khăn gì để học cách chơi bạc. Các con bài cũng dễ dàng nhận ra rằng, nhà cái rất công bằng và xác suất 50 - 50 (ở đây là sòng bạc chuyên nghiệp chứ không phải cờ bạc bịp).

Nhưng kết cục của con bạc giống nhau. Lý lẽ rất đơn giản, bạn là con bạc và nếu bạn thắng thì bạn sẽ rất hứng với số tiền thắng bạc để rồi tiêu xài hoang phí và quay lại xới bạc để thua nặng lần sau. Nếu bạn thua thì bạn sẽ rất cay cú, vét sạch túi và vay mượn để gỡ và lại thua hết. Bởi vì xác suất cho "cờ bạc đạo đức" là 50 - 50, nhà cái vẫn thắng vì họ không quan trọng thắng thua, con bạc sẽ thua bởi vì khát nước.

Bạn nghĩ gì về một nhà đầu tư tại Hà Nội, từng có 3 căn nhà và đã bán tất vì thua lỗ chứng khoán, hàng ngày vẫn vật vã bám sàn để mong cửa gỡ. Trong khi các quỹ đầu tư nước ngoài nhận ra rằng, họ đã thua lỗ quá nhiều trong năm 2008 và suốt ba tháng cuối năm phải chấp nhận bán cổ phiếu để cắt lỗ và lấy tiền mặt...

Lời bình: Kinh doanh phải chấp nhận nín thở qua cầu trong những lúc khó khăn. Nếu bạn cố đấm ăn xôi trong bất cứ hoàn cảnh nào, bạn thực chất đã tham gia thị trường chứng khoán như một con bạc và dễ dàng trắng tay như bất cứ con bạc khát nước nào.