Thứ Hai, 12 tháng 5, 2008

goc nhin

Bên tài chính, bên ngân hàng

Khi chỉ số VN-index tụt xuống dưới “đáy 500”, Bộ trưởng bộ Tài chính Vũ Văn Ninh tuyên bố: “Nếu tôi có nhiều tiền, tôi sẽ chọn thời điểm này (26.3.2008), để mua cổ phiếu”. Nhớ hôm 6.3, phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cũng đảm bảo, đầu tư bây giờ là “thắng”. Hôm ấy, chỉ số VN-index vẫn còn ở mức 611. Dự báo của các nhà hoạch định chính sách tác động không ít đến tâm lý các nhà đầu tư. Nhưng, đưa uy tín ra đảm bảo cho sự lên xuống của chứng khoán thì quả là vô cùng mạo hiểm.

Hôm qua, 27.3, khi đến uỷ ban Thường vụ (UBTV) quốc hội trình kiến nghị điều chỉnh một quy định trong bộ luật Dân sự có liên quan tới lãi suất cho vay, ông Nguyễn Văn Giàu, thống đốc ngân hàng Nhà nước, đã không trả lời phỏng vấn. Các quan chức tài chính có vẻ đang “chiếm diễn đàn”. Quốc hội hôm 26.3 cũng chỉ chất vấn ông Vũ Văn Ninh. Trong khi, chính sách tiền tệ đang tác động trực tiếp lên lạm phát hiện nay. Và, người cần lên tiếng ngay, phải là ông thống đốc.

Không ai có thể ngờ được tình hình thị trường hiện lại rơi vào tình huống như vậy. Cho dù, có không ít dấu hiệu “bong bóng” trên thị trường chứng khoán và địa ốc; lạm phát lên tới 12,6%…, trước tết, các hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn diễn ra rất tốt. Xuất khẩu quý 1-2008 vẫn tăng 23,7%; nhập khẩu tăng 60,7%. Tại TP.HCM, kinh tế vẫn tăng trưởng khá, ngân sách thu tăng 72,6%. Thế nhưng, khó có thể dự đoán được những gì sẽ diễn ra, khi mà các “liệu pháp” gần đây của ngân hàng Nhà nước đang liên tiếp gây ra nhiều cú sốc.

Trước tình trạng tăng trưởng tín dụng của năm 2007 quá nóng; có không ít ngân hàng đã dùng tín dụng ngắn hạn cho vay trung, dài hạn; đặc biệt là cho vay đầu tư địa ốc và chứng khoán. Thắt chặt chính sách tiền tệ là cần thiết, vừa để “siết” lượng tiền mặt lưu thông, giảm lạm phát, vừa để tránh các nguy cơ về sau cho hệ thống các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, những quyết định nặng tính mệnh lệnh hành chính, “giáng cấp tập”, đã ngay lập tức gây những hiệu ứng tiêu cực cho thị trường.

Mấy ngày cuối tháng 1.2008, lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng vọt lên tới 27%, trong khi đầu tháng, thị trường này đã bắt đầu với lãi suất 6,52%. Sở dĩ lãi suất qua đêm cao như vậy là bởi các ngân hàng phải nhanh chóng tập trung một lượng tiền mặt lên tới khoảng 20.000 tỉ đồng, nhằm đáp ứng quy định tăng dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%. Ngày 13.2, ngân hàng Nhà nước lại ra quyết định, buộc các ngân hàng thương mại phải mua một lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỉ đồng. Nhu cầu tiền mặt, ngay lập tức, lên tới hơn 40.000 tỉ đồng đã làm náo loạn các tổ chức tín dụng.

Các ngân hàng cổ phần buộc lòng phải tăng lãi suất huy động. Sự chênh lệch về lãi suất đã khiến cho các tổng công ty nhà nước rút tiền, đang cho vay lãi suất thấp ở các ngân hàng quốc doanh, gửi sang ngân hàng cổ phần. Chỉ trong ngày 18.2, các tổng công ty nhà nước đã rút ra hơn 4.000 tỉ đồng. Các ngân hàng quốc doanh, vốn vẫn dùng những nguồn tiền lãi suất thấp từ nhà nước đem cho các ngân hàng nhỏ vay lại. Nay thiếu tiền đột ngột, vội vàng ép các ngân hàng này. “Cơn khát” tiền mặt toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng trong những ngày này có khi lên tới trên 40%.

Lãi suất huy động tăng, đã khiến cho các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay. Nhiều ngân hàng đang buộc khách hàng chấp nhận một lãi suất cho vay 24 – 25%, cao hơn nhiều mức mà bộ luật Dân sự cho phép. Các doanh nghiệp cũng “khát” tiền mặt, tình trạng bán hàng dưới giá, hoặc vay với lãi suất cao đang khiến cho chi phí sản xuất tăng đột biến. Không có gì ngạc nhiên khi lạm phát ba tháng đầu năm đã lên tới 9,19%. Các biện pháp của ngân hàng Nhà nước nói là chống lạm phát, nhưng đã trực tiếp làm “mất giá” đồng tiền khi đặt các ngân hàng trong tình thế phải nâng lãi suất lên cao như vậy. Lãi suất còn tác động nhiều hơn nữa trong những tháng tới, khi các khoản tín dụng này thực sự được “đưa vào sản xuất kinh doanh”.

Năm 2004, mức tăng trưởng tín dụng đã từng lên đến 41%; những biện pháp hiệu quả sau đó đã khiến cho tăng trưởng tín dụng xuống còn trên dưới 20%; năm 2006: 21,4%. Nhưng năm 2007, do dự báo kém và thiếu những biện pháp kịp thời, tăng trưởng tín dụng lên tới 38,7%. Lẽ ra cần phải có những bước đi vững chắc từ trước, ngân hàng Nhà nước đã lập tức “sửa sai”. Không phủ nhận là những liệu pháp ấy có một giá trị cảnh báo rất lớn. Các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp ngân hàng đã ý thức đầy đủ hơn về những rủi ro vốn đầu tư vào chứng khoán và địa ốc đã bắt đầu chững lại. Tuy nhiên, cách làm cấp tập đó đã gây ra không ít sự cố cho một nền kinh tế đang ở trạng thái yên hàn, chưa kể về sau, còn có thể gây ra nhiều hậu quả.

Tuyên bố của các quan chức tài chính đang khiến cho dư luận nghĩ, chính phủ đang tập trung “cứu chứng khoán”. Có lẽ cũng nên cân nhắc, chứng khoán phải chăng là mục tiêu ưu tiên nhất trong tình hình hiện nay.

Nếu như quyền thiết lập các chính sách tiền tệ không nằm trong tay ngân hàng Nhà nước, độc lập với bộ Tài chính, thì các chính sách sẽ thiếu khách quan và rất dễ chồng chéo

Chưa kể, một khi các “cam đoan” của những người có trách nhiệm đã không được “cầu chứng” bởi thị trường, niềm tin vào những tuyên bố tiếp theo, cũng sẽ có phần mai một.

Ngày 25.3, ngân hàng Nhà nước yêu cầu thu về 52.000 tỉ đồng của ngân sách đang được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm, thấp hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường tín dụng. Khoản tiền này theo nguyên tắc phải được chuyển vào ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, từ 10 năm trước, theo “sáng kiến” của bộ Tài chính, nó đã được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay. Một mặt, nó tạo ra sự bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh. Mặt khác, cho thấy, bộ Tài chính đang nắm giữ nhiều “quyền năng” trong lĩnh vực tiền tệ.

Ngoài việc sử dụng 52.000 tỉ đồng nói trên, bộ Tài chính hiện đang quản lý một lượng dự trữ ngoại hối rất lớn. Chức năng này của bộ tạo cảm giác Việt Nam đang có một “ngân hàng nhà nước thứ hai”. Không phải ngẫu nhiên, mà ông bộ trưởng bộ Tài chính đang là người lên tiếng nhiều nhất về những diễn biến của thị trường tiền tệ. Chính UBTV Quốc hội cũng chỉ triệu bộ trưởng Tài chính tới chất vấn về chính sách tiền tệ và tỷ giá thay vì chất vấn thống đốc ngân hàng. Nếu như quyền thiết lập các chính sách tiền tệ không nằm trong tay ngân hàng Nhà nước, độc lập với bộ Tài chánh, thì các chính sách sẽ thiếu khách quan và rất dễ chồng chéo. Chưa kể, nếu như những diễn tiến bất lợi của nền kinh tế hiện nay được chứng minh là hậu quả của các chính sách tiền tệ vừa qua, thì ai mới thực sự là người đứng ra chịu trách nhiệm trước Nhân dân, Quốc hội.

Huy Đức





Không có nhận xét nào: